TS. Nguyễn Minh Thảo, Trưởng ban Nghiên cứu môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia, Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương (CIEM). |
Điều này tạo tâm lý nặng nề và bất an cho doanh nghiệp khi họ đang rất khó khăn để chèo lái hoạt động sản xuất - kinh doanh trong bối cảnh chịu tác động nặng nề và liên tiếp bởi những tác động của dịch bệnh và thị trường. Dường như các cơ quan quản lý đã quên Chỉ thị 20 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ quy định chỉ kiểm tra một lần trong năm và tránh kiểm tra chồng chéo.
Ngoài ra, doanh nghiệp phản ánh thời gian gần đây họ bị kiểm tra về an toàn phòng cháy chữa cháy quá khắc nghiệt, đặc biệt sau khi xảy ra một số vụ cháy nổ quán karaoke.
Theo phản ánh của cộng đồng doanh nghiệp, quy định về điều kiện đảm bảo phòng cháy chữa cháy chưa khoa học; chưa phân loại theo mức độ rủi ro của ngành nghề sản xuất, kinh doanh; điều kiện quá khắc nghiệt và làm tăng chi phí quá mức cho doanh nghiệp.
Chẳng hạn như yêu cầu công trình, nhà xưởng phải được sơn chống cháy khiến một doanh nghiệp đầu tư 2,8 tỷ đồng xây nhà kho phục vụ hoạt động logistics nhưng chỉ riêng chi phí cho phòng cháy chữa cháy đã lên tới 1 tỷ đồng (bằng gần 1/3 giá trị công trình).
Theo khảo sát, ở các doanh nghiệp sản xuất, trung bình đầu tư sơn chống cháy làm tăng 20% giá thành nhà xưởng. Nhiều doanh nghiệp, thậm chí có doanh nghiệp đang hoạt động ổn định 20 năm nay, cũng phải tạm dừng hoạt động do không đảm bảo yêu cầu về phòng cháy chữa cháy.
Năm 2022, ngoài Nghị quyết 02, Chính phủ còn ban hành Nghị quyết 11 về việc triển khai Nghị quyết 43 của Quốc hội về hỗ trợ phục hồi kinh tế, trong đó có nội dung cải cách môi trường kinh doanh. Quá trình triển khai hai nghị quyết này ra sao và vướng mắc ở chỗ nào?
Tại Nghị quyết 11 của Chương trình phục hồi phát triển kinh tế, Chính phủ đưa ra giải pháp cải cách môi trường kinh doanh khá tương đồng với Nghị quyết 02. Nhưng năm 2022, chúng ta đã tập trung quá nhiều vào các giải pháp bình ổn giá cả, đối phó với biến động của thị trường ngoài nước, khiến cho những cải cách này chưa được quan tâm và thực hiện đúng tầm với vai trò của nó.
Nghị quyết 02 của Chính phủ đặt ra 10 nhóm giải pháp cụ thể, trong đó có giải pháp về thu hẹp ngành nghề kinh doanh có điều kiện và cải cách điều kiện kinh doanh. Tuy nhiên, theo quan sát của chúng tôi thì trong năm qua, các bộ, ngành dường như chưa có động thái nào về rà soát các ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện thuộc lĩnh vực mình quản lý. Theo rà soát độc lập, chúng tôi nhận thấy rằng số lượng ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện trên thực tế lớn hơn nhiều số lượng 227 ngành nghề ban hành kèm theo Luật Đầu tư 2020.
Một số mục tiêu, nhiệm vụ đề ra tại Nghị quyết số 11 từng bước được hiện thực, tuy nhiên vẫn còn bất cập trong triển khai các gói hỗ trợ. Ví dụ, gói giảm thuế VAT 2% được doanh nghiệp đánh giá cao nhưng thời gian thực hiện quá ngắn (chỉ hết năm 2022) và áp dụng theo mặt hàng nên cũng gây lúng túng và lo ngại cho doanh nghiệp về thanh tra, kiểm tra thuế. Hay gói hỗ trợ lãi suất 2% với các quy định và điều kiện khó đáp ứng, khiến nhiều doanh nghiệp không tiếp cận được và ngân hàng cũng e ngại khi giải ngân…
Ngoài ra, những vướng mắc đã tồn tại trong thời gian dài như chồng chéo, mâu thuẫn, khác biệt giữa các văn bản pháp luật cũng chậm được khắc phục, nhất là trong lĩnh vực đầu tư, đất đai, xây dựng và môi trường.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang xây dựng dự thảo Nghị quyết 02 năm 2023. Là người có 10 năm trực tiếp tham gia Ban soạn thảo, bà có thể cho biết Nghị quyết năm nay sẽ tập trung giải quyết những vấn đề này như thế nào?
Năm 2023, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp về cải cách, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh tiếp tục được Chính phủ coi trọng và lồng ghép vào Nghị quyết số 01/NQ-CP với tên gọi Nghị quyết về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2023.
Theo đó, Nghị quyết tiếp tục khẳng định mục tiêu nâng hạng các chỉ số về môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh đến năm 2025 đã đề ra tại Nghị quyết số 02 năm 2022; đồng thời chú trọng tới 4 nhóm giải pháp cụ thể, gồm: Nâng cao chất lượng cải cách danh mục ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh; tiếp tục thúc đẩy cải cách quản lý, kiểm tra chuyên ngành đối với hàng hóa và triển khai hiệu quả Cổng thông tin một cửa quốc gia; chấn chỉnh hoạt động thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp tràn lan; rà soát, điều chỉnh kế hoạch thanh tra, kiểm tra để đảm bảo không trùng lặp, chồng chéo; không làm cản trở hoạt động bình thường của doanh nghiệp và nâng cao chất lượng các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, nhất là đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Để việc cải cách môi trường kinh doanh trong năm 2023 đạt được bước tiến mới sau 3 năm “giảm tốc”, theo bà, cần có những giải pháp nào?
Nhiều tổ chức quốc tế dự báo, năm 2023, kinh tế nước ta bên cạnh những thuận lợi thì sẽ đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức hơn. Vì thế, những giải pháp thúc đẩy tự do kinh doanh, đảm bảo môi trường chính sách an toàn cho doanh nghiệp cần được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm và nỗ lực thực thi phải mạnh mẽ hơn. Đồng thời, cần khôi phục lại động lực cải cách của chính quyền địa phương. Môi trường kinh doanh sẽ tác động đến cách thức vượt qua khó khăn và mức độ tận dụng cơ hội của các doanh nghiệp trong quá trình phục hồi.
Mỗi chính sách cần được đánh giá tác động tới hoạt động của doanh nghiệp, người dân. Những đánh giá này phải được thực hiện nghiêm túc, có phương pháp khoa học, thay vì chỉ mang tính hình thức, chiếu lệ. Hoạt động đánh giá tác động chính sách phải được tham vấn rộng rãi các đối tượng bị điều chỉnh, thiết lập cơ chế công khai việc tiếp thu ý kiến đóng góp của các bên liên quan. Đồng thời, cần thiết phải có sự tham gia của đại diện các tổ chức nghiên cứu độc lập, hiệp hội doanh nghiệp, doanh nghiệp, chuyên gia trong quá trình thẩm định văn bản pháp luật; xây dựng cơ chế tiếp nhận ý kiến và phản hồi ý kiến đối với các đối tượng bị điều chỉnh bởi văn bản pháp luật.
Công cuộc cải cách thành công hay không, không chỉ phụ thuộc vai trò của cơ quan ban hành, mà cần có sự kết hợp ba bên: cơ quan ban hành chính sách, cơ quan thực thi và đối tượng bị tác động bởi chính sách là doanh nghiệp. Thời gian gần đây, doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều khó khăn, bởi những bất ổn thị trường, nên mức độ quan tâm tới phản biện chính sách có phần suy giảm. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp cho rằng, có nhiều chương trình hỗ trợ kết quả không như kỳ vọng. Vì thế, họ chưa thực sự tin tưởng vào các chương trình hỗ trợ và giảm dần niềm tin vào những nỗ lực cải cách.
Theo tôi, để khơi gợi niềm tin của doanh nghiệp, Chính phủ cần phải liên tục hơn, mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn, cụ thể hơn trong tạo áp lực và động lực cải cách để cải cách hay hỗ trợ không chỉ nằm trên văn bản, mà phải thể hiện bằng kết quả cụ thể trong hành động.