The Provincial Competitiveness Index ( PCI )

CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CẤP TỈNH

Provincial Green Index

English

Môi trường kinh doanh: Lực cản nâng cao cạnh tranh

Cuối tuần qua, một hội thảo quốc tế nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và đổi mới, phát triển DN đã được tổ chức tại Hà Nội. Hội nhập đã mang đến nhiều cơ hội nhưng cũng khiến Việt Nam đối mặt không ít thách thức khi môi trường kinh doanh còn nhiều tồn tại, hạn chế.

Chưa nhận thức rõ vai trò cải thiện môi trường kinh doanh

Theo ông Vương Đình Huệ, Trưởng Ban Kinh tế Trung ương, trong điều kiện đổi mới mô hình tăng trưởng, chú trọng nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của từng chủ thể kinh tế, cơ chế chính sách đối với các loại hình DN còn nhiều bất cập, chưa đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả thực thi còn thấp. Năng suất, hiệu quả của nền kinh tế không cao.

Tính liên kết giữa các DN trong nước và nước ngoài còn yếu. Khoảng cách giữa chủ trương chính sách với thực thi trên thực tế còn lớn. Việc phát triển các yếu tố thị trường và các loại thị trường còn nhiều vướng mắc, chưa được khơi thông. Đây cũng là những nguyên nhân cơ bản làm cho môi trường kinh doanh của Việt Nam chưa được thuận lợi, năng lực cạnh tranh quốc gia còn hạn chế.

Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2015-2016 đã chỉ ra 5 nhóm vấn đề được coi là trở ngại lớn nhất đối với Việt Nam, gồm: "Tiếp cận tài chính", "Chính sách không ổn định", "Lao động qua đào tạo không đủ", "Kỷ luật lao động kém" và "Tham nhũng". Bên cạnh đó, sự cải thiện năng lực cạnh tranh cấp tỉnh trong giai đoạn 2006 - 2014 cho thấy, các lĩnh vực không được cải thiện hoặc có chiều hướng đi xuống, đó là: "Chi phí không chính thức", "Tính năng động của chính quyền", "Tiếp cận đất đai" và "cạnh tranh bình đẳng".

Theo PGS.TS Phạm Thị Hồng Yến, Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương, nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trên trước hết là do chưa có nhận thức đầy đủ về vai trò của việc cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định trong phát triển kinh tế, đặc biệt trong thời kỳ hội nhập. Đổi mới, hoàn thiện thể chế về kinh doanh và cạnh tranh còn hạn chế. Cơ chế thực thi và phối kết hợp trong tổ chức quán triệt, thực hiện các chủ trương, chính sách về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh còn đạt hiệu quả thấp.

Ông Tô Hoài Nam, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội DN nhỏ và vừa, cũng chỉ ra thực tế khu vực này đang thể hiện vai trò động lực tăng trưởng của nền kinh tế, nhưng mấy năm gần đây chưa thoát khỏi khó khăn, có phần đuối sức trong xu thế cạnh tranh gay gắt và hội nhập. Đồng thời xuất hiện một số nguy cơ DN nào có quan hệ tốt với chính quyền sẽ dễ tiếp cận với tài nguyên đất, khoáng sản, các gói thầu... nên tăng trưởng rất nhanh, áp đảo các DN nhỏ và vừa "chân phương".

"Hệ quả là xuất hiện tâm lý "nản chí" trong một bộ phận không nhỏ các doanh nhân, một bộ phận khác vì sự "sinh tồn" phải chạy theo xu thế "kinh doanh quyền lực". Đó là sự thực đáng lo ngại" - ông Nam bày tỏ.

Môi trường kinh doanh không những còn tồn tại, bất cập ở giai đoạn kinh doanh mà giai đoạn khởi nghiệp cũng có nhiều hạn chế. Theo TS. Nguyễn Quốc Toản, Phó Chánh Văn phòng Ban Kinh tế Trung ương, nguyên nhân là do phần lớn các nền tảng cơ bản cho phát triển DN cũng như đầu tư mạo hiểm, phát triển hệ thống ươm tạo công nghệ và DN khoa học - công nghệ vẫn còn yếu kém. Chỉ số về tinh thần kinh doanh toàn cầu (với 3 chỉ số thành phần là thái độ kinh doanh, năng lực kinh doanh và say mê kinh doanh) của Việt Nam cũng rơi vào dạng "rất thấp", thậm chí thấp hơn nhiều nước trong khu vực như: Lào và Campuchia. Khung pháp lý về việc thành lập, vận hành vườn ươm công nghệ, thực thi các vấn đề bản quyền, sở hữu trí tuệ, thỏa thuận chuyển giao công nghệ từ trường đại học đến DN vẫn còn chưa đồng bộ; các loại hình công nghệ ươm tạo còn chưa đa dạng.

Ngoài ra, đầu tư mạo hiểm ở Việt Nam trong những năm qua còn chưa thực sự ổn định, thiếu bền vững, phụ thuộc chủ yếu vào đầu tư từ nước ngoài. Nhiều DN trong nước không biết bắt đầu từ đâu, làm thế nào để các quỹ đầu tư nước ngoài nhận biết được nhu cầu về vốn của mình. Còn ở cấp độ quốc gia, hiện vẫn chưa có một chương trình tổng thể khởi nghiệp quốc gia.

Cải cách, hỗ trợ thúc đẩy DN khởi nghiệp, phát triển

Theo bà Victoria Kwakwa – Giám đốc quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam, chất lượng thể chế đóng vai trò cạnh tranh. Trong đó, thái độ của Chính phủ đối với thị trường tự do, quản lý điều tiết quá mức, thiếu sự minh bạch, sự phụ thuộc chính trị vào hệ thống tư pháp sẽ ảnh hưởng tới chi phí rất lớn.

Để nâng cao năng lực cạnh tranh, bà Victoria Kwakwa, cho rằng, cần kết nối các thị trường, cải thiện cơ sở hạ tầng đồng thời giúp giảm nghèo, bình đẳng, giáo dục... Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam cần điều phối để đưa ra chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia thông qua việc: thúc đẩy khu vực tư nhân, tự do hóa, bình đẳng cho các DN; phát triển nguồn vốn con người; thúc đẩy văn hóa khởi nghiệp, cải thiện môi trường kinh doanh; tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng; xây dựng khu vực dịch vụ xương sống như khu vực tài chính, logistic, giao thông.

Ông Vũ Tiến Lộc – Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, cho rằng 5-7 năm tới sẽ trả lời cho câu hỏi rằng có vượt lên, có bứt phá được hay không. Việt Nam có một thời cơ thuận lợi khi tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương. Chính điều này đã giúp Việt Nam vượt lên so với nhiều nước ASEAN và các nước láng giềng. Đây là cơ hội có một không hai khi TPP chưa mở rộng thành viên. Liệu có làn sóng đầu tư mới, làn sóng phát triển mới hay không?

"Tôi cho rằng, câu trả lời tùy thuộc vào liệu có làn sóng cải cách thể chế hay không. Đại hội Đảng XII lần đầu tiên khẳng định Việt Nam xây dựng một nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN hiện đại theo chuẩn mực của thế giới và lần đầu tiên nhắc đến kinh tế tư nhân là động lực và xây dựng quốc gia khởi nghiệp. Thể chế nào, doanh nhân đó " – ông Lộc nói.

Cũng theo ông Lộc, Chính phủ cần cố gắng tạo môi trường bình đẳng, hỗ trợ DN nhỏ và vừa. Việc hỗ trợ không phải chỉ thực hiện khi DN khó khăn mà cần thay đổi theo hướng tập trung vào những DN có tiềm năng cạnh tranh nhưng gặp khó khăn tạm thời. Từ đó mới tạo ra các đầu tàu của nền kinh tế, những DN tư nhân mạnh, trở thành đối tác của các tập đoàn lớn thế giới, trở thành thương hiệu quốc gia.

"Chính phủ cần phát huy 4 nguồn lực: cải cách hành chính, cắt giảm thủ tục để giảm chi phí không chính thức và chính thức; thành lập trung tâm hành chính công; thúc đẩy xúc tiến đầu tư; thúc đẩy thay đổi quản trị DN nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh" - ông Lộc bày tỏ quan điểm.

Theo ông Sandeep Mahajan –Kinh tế trưởng của WB, tính cạnh tranh của lực lượng lao động trong bối cảnh hợp tác sẽ phụ thuộc rất lớn vào năng suất. Nhưng tăng trưởng năng suất của lao động Việt Nam đang giảm đi. Đây là một điều lo ngại trong dài hạn khi Việt Nam muốn thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Điều đáng quan ngại trong đó là năng suất của khu vực tư nhân giảm theo thời gian.

Để đảo ngược xu hướng này thì cần tập trung xây dựng các cơ chế thị trường, đảm bảo cạnh tranh, sở hữu trí tuệ và tự do hóa các thị trường nhân lực, đất đai, nguồn vốn. Việc sử dụng mối quan hệ trong việc tranh thủ các nhân tố nói trên cần phải được giảm thiểu. Sự sáng tạo cần phải được thúc đẩy để nâng cao năng suất lao động. Việc phát triển nghiên cứu và phát triển cũng cần phải được chú trọng trong cách kết hợp giữa các DN và các trung tâm nghiên cứu của các trường đại học, viện nghiên cứu.

Theo Người đồng hành