The Provincial Competitiveness Index ( PCI )

CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CẤP TỈNH

Provincial Green Index

English

Môi trường kinh doanh vẫn “hụt tầm”

Môi trường kinh doanh (MTKD), năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam đã được xếp hạng 55 trên tổng số 137 nền kinh tế, tăng 5 bậc so năm 2016 và 20 bậc so cách đây 5 năm. Tuy thứ hạng MTKD của Việt Nam đã được cải thiện trên hầu hết các chỉ tiêu, nhưng chưa đạt trung bình ASEAN 4. MTKD tốt lên, nhưng đó chỉ là “tốt so chúng ta”, còn so các nước “top” đầu ASEAN, MTKD Việt Nam vẫn tỏ ra “chậm chân”.

Nhiều thủ tục thuế đã được cải thiện. Ảnh: HẢI NAM

Chậm cải thiện so khu vực

Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) vừa công bố Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu 2017 – 2018. Kết quả cho thấy Việt Nam xếp hạng 55 trên tổng số 137 nền kinh tế, tăng 5 bậc so năm 2016 và 20 bậc so cách đây 5 năm. Theo WEF, Việt Nam đã có những cải thiện đáng chú ý trong mức độ sẵn sàng về công nghệ, tính hiệu quả của thị trường lao động. Bên cạnh đó, ngoại thương là một yếu tố lớn khác giúp Việt Nam tiến lên phía trước khi đứng thứ 7 về tỷ lệ nhập khẩu so GDP và thứ 11 về tỷ lệ xuất khẩu.

Kết quả nêu trên rất đáng ghi nhận, nhưng nếu so các quốc gia trong khu vực Đông - Nam Á, Việt Nam vẫn xếp sau: Singapore, Malaysia, Thái-lan, Indonesia. Cụ thể, WEF đánh giá các quốc gia Đông - Nam Á đều có sự tiến bộ 1 - 2 bậc trong báo cáo năm nay, với thứ hạng rất cao như: Singapore (thứ 3), Malaysia (thứ 23), Thái-lan (thứ 32). Đặc biệt, Indonesia được WEF đánh giá cao, năm nay xếp hạng 36/137 quốc gia (tăng từ vị trí 41 vào năm ngoái) nhờ đạt được sự cải thiện ở 10 trong 12 tiêu chí đánh giá, về sức khỏe, giáo dục và hạ tầng. Tính chung trong 5 năm qua, Indonesia đã tăng 14 bậc, vươn lên đứng thứ 4 khu vực Đông - Nam Á.

Dự thảo Nghị quyết 19 (NQ 19) năm 2017 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) soạn thảo, đặt mục tiêu đến hết năm 2017, các chỉ tiêu MTKD của Việt Nam phải đạt mức ASEAN 4 (Singapore, Thái-lan, Malaysia, Philippines). Cụ thể, khởi sự kinh doanh thuộc nhóm 60 nước đứng đầu, tiếp cận tín dụng (đánh giá theo cách tiếp cận của WEF) thuộc 40 nước đứng đầu, bảo vệ nhà đầu tư thiểu số thuộc 60 nước đứng đầu. Bên cạnh đó, năm 2017, phấn đấu rút ngắn thời gian thực hiện các thủ tục hành chính (TTHC), gồm: thời gian cấp phép xây dựng và các thủ tục liên quan không quá 77 ngày, tiếp cận điện năng không quá 35 ngày… Như vậy, cho đến nay, Việt Nam đã có những tiến bộ nhất định. Tuy nhiên, vì các nước trong khu vực cũng chuyển biến cho nên Việt Nam vẫn bị bỏ lại khá xa.

Trước đó, đánh giá ba năm thực hiện NQ 19 về cải thiện MTKD và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, Bộ KH&ĐT thừa nhận, tuy thứ hạng MTKD của nước ta đã được cải thiện trên hầu hết các chỉ tiêu, đứng trên Philippines, nhưng chưa đạt trung bình ASEAN 4, thậm chí một số chỉ tiêu chưa đạt trung bình ASEAN 6 (Singapore, Malaysia, Thái-lan, Brunei, Philippines và Indonesia).

Nhìn lại quá trình thực hiện NQ 19 trong ba năm 2014 -2016, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam từng cho biết, năm đầu tiên NQ đề ra 50 nhóm giải pháp, nhiệm vụ, thực hiện được tám, đang thực hiện 17 giải pháp chưa có kết quả rõ ràng. Năm 2015 có 73 nhóm nhiệm vụ, giải pháp, đã thực hiện được 44%, đang thực hiện 23% và chưa thực hiện 33%... Điều đó cho thấy, vẫn còn khoảng cách từ văn bản đến thực tế. Có tới 80% nhiệm vụ trong NQ 19 cần sự phối hợp liên ngành, vì vậy rất cần làm rõ phần việc, trách nhiệm của từng bộ, ngành trong từng chỉ tiêu, chỉ số về MTKD, nâng cao năng lực cạnh tranh.

Thứ trưởng KH&ĐT Đặng Huy Đông đánh giá, NQ 19 của Chính phủ về cải thiện MTKD thời gian qua đã đạt được hiệu quả nhất định. Theo chỉ số đánh giá của Ngân hàng Thế giới (WB), có những chỉ số chúng ta nhảy đến 12 bậc so năm trước. Hiệu quả đó được đánh giá bằng chỉ số thu hút đầu tư, mức độ phát triển doanh nghiệp (DN) đều tăng, nghĩa là MTKD của chúng ta tốt hơn. Nhưng đó là tốt so chúng ta, trong khi các nước trong khu vực cũng đang thăng tiến. Cách đây ba năm, chúng ta bằng với ASEAN 4 cách đây bốn năm. So các nước tốp đầu khu vực ASEAN, MTKD Việt Nam vẫn “chậm chân” hơn họ.

Lao động có chi phí thấp vẫn là một yếu tố thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Ảnh: SONG ANH

Cần tiếp tục cải cách thể chế

Theo đánh giá của Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) Vũ Tiến Lộc, NQ 19 đặt ra mục tiêu năm 2020, chúng ta phải xếp vào nhóm ASEAN 4, có lúc còn nêu trong mục tiêu là một trong ba nền kinh tế lớn của ASEAN nhưng xem chừng mục tiêu đó khó khăn. Dù có nhiều thay đổi về MTKD, đang là điểm đầu tư hàng đầu của các DN Nhật Bản, EU, Mỹ… nhưng theo công bố của DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), sự hấp dẫn của Việt Nam vẫn vì chính trị xã hội ổn định, quy mô thị trường tương đối lớn, kết nối vào các hiệp định thương mại tự do (FTA) và chi phí lao động thấp. Còn đánh giá về thể chế và TTHC Việt Nam, họ vẫn cho là phức tạp nhất thế giới. Điều đó có nghĩa MTKD của Việt Nam còn phức tạp.

Chủ tịch Hiệp hội DN nhỏ và vừa Nguyễn Văn Thân chia sẻ, cộng đồng DN phản ánh MTKD vẫn còn những khoản phí phi chính thức với số tiền “phong bao, phong bì” không nhỏ, thể hiện qua các chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh 2016 (PAPI). DN muốn được việc buộc phải chung chi theo kiểu “của công chia ba, của nhà chia đôi”.

Chủ tịch Công ty Luật BASICO Trương Thanh Đức cho rằng, lẽ thường trong kinh doanh là phải chấp nhận lãi, hòa, hoặc lỗ và rủi ro lớn nhất là mất toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, dường như rủi ro lớn nhất trong kinh doanh lại là rủi do pháp lý, hay rộng hơn là rủi ro chính sách, thay vì rủi ro thị trường hay bất cứ rủi ro nào khác. Cải cách sửa đổi TTHC của Việt Nam cần phải nhìn ra ASEAN xem họ làm như thế nào để chúng ta học hỏi. Sửa đổi hệ thống pháp luật kinh doanh phải làm mạnh mẽ hơn. Thực tế, tình trạng trên nóng dưới lạnh, trên bảo dưới không nghe một phần là do ý thức, năng lực cán bộ nhưng nguy hiểm hơn, quy định pháp luật giải thích kiểu gì cũng được, mỗi nơi giải thích một kiểu, mỗi công chức giải thích một kiểu, gây khó khăn cho người kinh doanh.

Ông Vũ Tiến Lộc thẳng thắn, MTKD của Việt Nam nói chung, của một số tỉnh, thành phố nói riêng vẫn còn không ít bất cập, hạn chế, thậm chí gây ra những rủi ro chính sách, đẩy DN vào tình thế nan giải, mất hoặc giảm cơ hội kinh doanh, dễ rơi vào cảnh thua lỗ, nợ nần dẫn đến phá sản. Một mặt, cơ sở hạ tầng đã, đang và sẽ được xây mới, nâng cấp nhiều trên phạm vi cả nước song tính kết nối còn hạn chế, nhất là chi phí lưu thông có xu hướng tăng mạnh, tác động tiêu cực tới chi phí sản xuất và khả năng cạnh tranh của nhiều DN. Mặt khác, hai trụ cột cải cách đổi mới là thể chế và nguồn nhân lực chưa theo kịp trụ cột xây dựng cơ sở hạ tầng nên còn tạo ra nhiều rào cản đối với DN. Tại sao trong xếp hạng của WB về MTKD, dù tiến bộ nhưng Việt Nam vẫn thuộc nền kinh tế ở mức trung bình. Do vậy, chúng ta cần tiếp tục cải cách thể chế.

Theo ông Atsusuke Kawada, Trưởng đại diện Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro) tại Việt Nam, những vấn đề liên quan TTHC, thủ tục thuế phức tạp thì đã có cải thiện, nhưng vẫn có hơn 40% số DN phản ánh là phiền phức, vẫn có những yêu cầu về các khoản phí không chính thức khi DN làm thủ tục thông quan. Nếu Việt Nam muốn phấn đấu đến cuối năm nay có TTHC đứng ngang bằng các nước ASEAN 4, như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc từng nói, tôi nghĩ phải tiếp tục nỗ lực nhiều hơn nữa.

Chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh cho rằng, đã đến lúc phải nghiêm túc, thận trọng rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật, chính sách về sở hữu tài sản, khuyến khích và bảo đảm đầu tư, kinh doanh. Muốn MTKD minh bạch, bình đẳng, mọi thứ phải được giải quyết bằng pháp luật hợp lý, có công cụ hữu hiệu, giải pháp rõ ràng, cách thức cụ thể, biện pháp khả thi và đặc biệt là phải xử lý, tháo gỡ, giải tỏa nhanh chóng, dứt điểm, thuyết phục, hợp tình hợp lý các vụ việc nổi cộm trong đầu tư, kinh doanh thay vì mong muốn, hô hào, quy định chung chung.

Viện trưởng Nghiên cứu Quản lý kinh tế T.Ư Nguyễn Đình Cung nhận xét, chúng ta mới đi được một nửa chặng đường đến ASEAN 4, phải có kết quả theo cấp số nhân mới đạt tới mục tiêu đề ra.
THU THỦY