The Provincial Competitiveness Index ( PCI )

CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CẤP TỈNH

Provincial Green Index

English

Thiết chế nào để thúc đẩy liên kết vùng ĐBSCL?

Câu chuyện liên kết vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) được thúc đẩy cả chục năm qua, song đến nay vẫn chưa ngã ngũ. Điều gì đã dẫn đến tình trạng như vậy và theo các chuyên gia, nên chăng có một thiết chế mới để tạo đột phá trong liên kết vùng.
Cần một thiết chế mới để thúc đẩy liên kết vùng ĐBSCL? Trong ảnh là cầu cần Thơ nối địa phương này với tỉnh Vĩnh Long. Ảnh: Trung Chánh
Tại hội thảo “Xây dựng thiết chế trong điều hành cấp địa phương – công cụ hiệu quả để cải cách trong giai đoạn mới” được tổ chức ở TP Cần Thơ mới đây, ông Nguyễn Phương Lam, Giám đốc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tại Cần Thơ (VCCI Cần Thơ), cho rằng thiết chế được xem là một trong những nền tảng trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia. Bởi, một quốc gia, vùng kinh tế hay địa phương có một thể chế tốt, cách vận hành tốt sẽ mang lại hiệu quả và giá trị lợi ích cho người dân, doanh nghiệp và toàn xã hội.
Theo ông, cải cách thể chế hay cụ thể hơn là đi tìm một thiết chế điều hành mới cho từng địa phương và chung cho vùng ĐBSCL để tiếp tục cải cách, đổi mới và đột phá là hoạt động quan trọng của đơn vị này với chính quyền các địa phương trong giai đoạn hiện nay.
Một trong những vấn đề quan trọng của cải cách thể thế đối với vùng ĐBSCL được xác định, đó là giúp tạo đột phá trong liên kết vùng.
Liên kết vùng tạo ra nhiều lợi ích
Từ thực trạng phát triển doanh nghiệp cũng như kết quả cải cách thể chế của các địa phương ĐBSCL thông qua đánh giá Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI- Provincial Competitiveness Index), ông Đậu Anh Tuấn, Phó tổng thư ký, Trưởng ban pháp chế của VCCI, cho rằng việc đưa ra bức tranh như vậy để thấy nhu cầu liên kết của các địa phương trong vùng hiện nay là rất lớn.
Thực tế thời gian qua, khu vực ĐBSCL đã có hàng chục hội thảo được tổ chức nhằm thúc đẩy về liên kết vùng, trong đó, khi nhìn từ góc nhìn kinh tế, của doanh nghiệp, liên kết vùng sẽ tạo ra rất nhiều lợi ích.
Theo đó, đầu tiên sẽ tạo ra năng lực cạnh tranh tốt hơn. “Không phải tự nhiên các địa phương hay các quốc gia liên kết lại”, ông Tuấn nói và cho rằng, với hoạt động kinh tế, cần không gian lớn hơn để hoạt động đầu tư nên khi liên kết lại sẽ tạo ra năng lực cạnh tranh của vùng.
Ngoài ra, liên kết cũng tạo ra hiệu ứng lan toả, mà cụ thể điều này được chứng minh trong lịch sử phát triển công nghiệp, thương mại ở nhiều nơi, trong đó, nơi nào trở thành cực phát triển sẽ dẫn dắt cả vùng phát triển theo.
Một lợi ích nữa là tạo ra sự phát triển cụm ngành, trong đó, nếu giữa các địa phương liên kết lại, sẽ dần dần hình thành được các cụm ngành – vốn là xu hướng sản xuất, đầu tư hay hiện nay, chứ không phải là một nhà máy hay doanh nghiệp đơn lẻ.
Đứng ở góc độ doanh nghiệp, liên kết mở rộng không gian hoạt động và điều này chắc chắn sẽ giúp các ngành được liên kết sẽ hiệu quả hơn nhờ quy mô. “Ví dụ, một nhà máy xử lý rác nếu chỉ cho 1 địa phương thì quy mô chỉ ở mức vừa phải, tuy nhiên, nếu phục vụ cho nhiều địa phương thì hiệu ứng sẽ tốt hơn”, ông Tuấn dẫn chứng và nói rằng, hình thức này sẽ giúp tạo ra lợi thế nhờ quy mô nên cần đi chuyên sâu, thay vì mỗi địa phương tự thực hiện.
Liên kết tạo ra cụm ngành về cây ăn trái. Ảnh: Trung Chánh
Tồn tại nhiều hạn chế
Thời gian qua, liên kết vùng là câu chuyện đã được nói đến rất nhiều, nhưng thực tế vẫn tồn tại rất nhiều khó khăn, thách thức. “Rõ ràng, liên kết của chúng ta phần lớn chỉ mới dừng lại ở các hội nghị, chứ chưa thể chuyển thành hoạt động thực tế hay chương trình cụ thể nên liên kết còn lỏng lẻo”, ông Tuấn nêu thực trạng.
Thậm chí, khi nói đến liên kết, lại đề cập quá nhiều nội dung, trong khi nguồn lực còn hạn chế. “Thực tế, thiết chế của chúng ta chưa cho phép, nhưng lại bàn quá nhiều nội dung liên kết nên rất khó để triển khai”, ông Tuấn nói.
Trưởng ban pháp chế của VCCI cho rằng, liên kết kinh tế chưa được mở đường, dẫn dắt mạnh, trong khi chủ thể liên kết quan trọng là doanh nghiệp, các tổ chức về kinh tế. “Rõ ràng, trong quá trình thiết lập mô hình hợp tác liên kết, chúng ta lại ít nói về hoạt động này, mà chỉ nói chung chung về định hướng, cam kết chính trị, về chính sách của Đảng và Nhà nước”, ông dẫn chứng.
Có một điều rất dễ nhận thấy ở các mô hình liên kết, đó là thiếu cơ chế vùng nên hiện nay cơ bản không có ai đứng ra “cầm trịch”, mà thường chỉ dựa trên sự tự nguyện, mong muốn của từng nơi.
Đối với vấn đề đầu tư các dự án hạ tầng giao thông liên địa phương, hiện nay rất khó với những dự án không phải trọng điểm quốc gia do các bộ, ngành đứng ra đầu tư. “Dự án tiểu vùng hay liên kết giữa hai địa phương thì tiến hành đầu tư rất khó. Bởi, các địa phương chỉ có thẩm quyền trong địa giới hành chính của mình thôi nên vướng việc điều phối nguồn lực để thực hiện”, ông Tuấn nói.
Đặc biệt, việc đưa ra quá nhiều mục tiêu trong liên kết cũng là một hạn chế, trong khi cơ chế giám sát cái nào thực hiện được, cái nào không lại thiếu, chỉ khi nào có tổng kết, đánh giá mới đi rà soát.
Cần “bắt tay” đưa ngành tôm phát triển. Ảnh: Trung Chánh
Liên kết gì nhìn từ góc độ kinh tế?
Câu hỏi được đặt ra khi nói đến liên kết vùng và bàn về thiết chế thì cụ thể liên kết cái gì?
Ông Tuấn của VCCI gợi ý một số hoạt động liên kết khi nhìn từ khía cạnh của doanh nghiệp, từ hoạt động kinh tế để có thể xây dựng được một thiết chế nhằm thúc đẩy hoạt động liên kết thành công.
Theo đó, có 9 nội dung liên kết, bao gồm liên kết xúc tiến thương mại đầu tư; liên kết trong kết nối giao thông và logistics; liên kết phát triển chuỗi cung ứng sản xuất; liên kết phát triển du lịch; liên kết cải thiện môi trường kinh doanh; liên kết đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực; liên kết bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; liên kết nông nghiệp, chế biến nông sản và ứng dụng nông nghiệp công nghệ cao và cuối cùng là liên kết trong đề xuất chính sách cho vùng.
Chẳng hạn, đối với xúc tiến đầu tư, thay vì từng địa phương “rót” kinh phí và thực hiện nhưng không mang lại hiệu quả thì có thể liên kết nguồn lực của tất cả các địa phương để tổ chức sự kiện lớn, đủ sức “kéo” các tập đoàn lớn của Nhật, Hàn Quốc, châu Âu…, hiệu quả sẽ cao hơn. Bởi, từng tỉnh như Bạc Liêu hay kể cả Long An đi xúc tiến, mức độ quan tâm của các nhà đầu tư sẽ ít.
Hay vấn đề liên kết giao thông, logistics, theo ông Tuấn, có thể cần bàn thêm, nhưng việc hình thành các thiết chế phải dựa trên các hoạt động cụ thể. “Chúng ta cần cái gì mới? và cái gì có thể tận dụng để nâng lên thì đấy là cách tiếp cận, chứ không phải thành lập hội đồng vùng với một hệ thống phức tạp. Chúng ta phải bắt đầu từ những hoạt động cụ thể trước”, ông nhấn mạnh.
Nhân công chế biến cá tra xuất khẩu. Ảnh: Trung Chánh
Tìm thiết chế mới hay cụ thể hoá cái đã có?
TS Trần Hữu Hiệp, chuyên gia kinh tế cho rằng việc xây dựng thiết chế trong điều hành cấp địa phương để trở thành một công cụ hiệu quả nhằm cải cách trong giai đoạn mới là rất thiết thực.
Tuy nhiên, theo ông, với thể chế của Việt Nam, gần như luật đã có hết, cho nên địa phương nếu cải cách được là cải cách hành chính, cải cách phối hợp với nhau, chứ đặt ra cái mới là rất khó. “Chuyển đổi đất trồng lúa có chuyển được đâu, ông chủ tịch UBND tỉnh không thể chuyển được”, ông nói như một dẫn chứng.
Như vậy, câu hỏi đặt ra đối với cải cách thể chế, thì tập trung vào điều gì?
Theo gợi ý của vị chuyên gia này, đó là cần làm “trơn tru” cái hiện có. “Ngay cả khi TP Cần Thơ có Nghị quyết 45 là cơ chế đặc thù, nhưng tôi thấy triển khai cũng đang cực kỳ khó khăn, chứ đừng nói đến đặt ra cải cách thể chế vượt qua Trung ương”, ông nhấn mạnh.
Đối với thể chế của vùng ĐBSCL, cần tập trung vào việc phối hợp tốt, trong đó, điểm nhấn liên kết vùng, liên kết chuỗi giá trị nhìn ở góc độ chính quyền và kinh tế.
Theo ông, với liên kết vùng, hiện đang trong tình trạng “2 có 3 không”, tức cái có thứ nhất là có quan điểm, chủ trương chính sách về liên kết vùng rất đẹp, mà cụ thể Hiến pháp năm 2013 tại điều 52 ghi rõ là thúc đẩy liên kết kinh tế vùng; các nghị quyết trung ương và chiến lược 10 năm, từ 2021-2030 cũng nói về liên kết vùng hay Nghị quyết 57 ngày 21-4-2022 về hoàn thiện thể chế liên kết vùng ở Việt Nam.
Cái có thứ hai, đó là có quy hoạch vùng ĐBSCL – là vùng đầu tiên của các nước có quy hoạch tích hợp theo Luật Quy hoạch.
Thế nhưng, có 3 không, bao gồm thứ nhất, không rõ chủ thể vùng là ai? ai thực thi quy hoạch này?
Cái không thứ hai là không tiền. Luật Ngân sách có hai cấp là Trung ương và địa phương, chứ không có cấp vùng. Như vậy, không có tiền thì lấy gì thực thi?
Cái không thứ ba là không lực lượng chuyên trách để thực hiện. “2 có -3 không này nếu không giải quyết được, thì nó sẽ nghẽn mãi”, ông Hiệp nhấn mạnh.
“Như vậy, sắp tới là cái gì?”, trả lời câu hỏi này, ông Hiệp cho rằng, gợi ý lĩnh vực liên kết của ông Đậu Anh Tuấn (như nêu ở trên- PV), thì trong Quyết định 593 của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 6-4-2016 về cơ chế thí điểm liên kết vùng ĐBSCL đã có, mà cụ thể tại điều 5 và 6 đã xác định 3 lĩnh vực liên kết và 4 hoạt động liên kết.
Cụ thể, (1) là liên kết sản xuất sản phẩm chủ lực của vùng; (2) liên kết trong phát triển hạ tầng thuỷ lợi và (3) là liên kết phát triển hạ tầng giao thông. Trong khi đó, 4 hoạt động liên kết, bao gồm (1) là liên kết trong lập quy hoạch, kế hoạch; (2) liên kết trong phát triển sản xuất; (3) liên kết trong đầu tư kết cấu hạ tầng và (4) là thiết lập hệ thống thông tin vùng.
“Tất cả những cái này điều có, nhưng quyết định này (Quyết định 593- PV) “chết yểu”, tức thí điểm năm 2016-2020 và giao Ban chỉ đạo Tây Nam bộ triển khai, nhưng năm 2018 ban này đã kết thúc hoạt động”, ông Hiệp nói.
Quyết định 593 “chết yểu”, nhưng vị chuyên gia này đã thấy “điểm sáng” mới khi Nghị quyết 57 (Nghị quyết 57 ngày 21-4-2022 về hoàn thiện thể chế liên kết vùng ở Việt Nam -PV) đã chỉ ra được một số vấn đề, bao gồm thứ nhất, cũng đánh giá vai trò chủ thể tham gia liên kết vùng còn mờ nhạt, kể cả Trung ương và địa phương; thứ hai, thoả thuận liên kết còn mang tính hình thức; thứ ba, liên kết vùng giữa các địa phương chưa phát huy sự chuyên môn hoá hay sự phân công lao động theo chuỗi giá trị; thứ tư, là thiếu cơ sở dữ liệu thông tin vùng để ra quyết định.
Tuy nhiên, Nghị quyết 57 cũng xác định mấy điểm (có kỳ vọng, nhưng cũng lo lắng), bao gồm thứ nhất, xác định thể chế liên kết vùng phải lấy quy hoạch vùng làm cơ sở pháp lý. “Như vậy, quy hoạch vùng ĐBSCL này (tại Quyết định 287/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ- PV) phải là cơ sở pháp lý, nhưng tôi lo ngại không khéo việc mỗi địa phương ban hành quy hoạch của tỉnh sẽ làm phá vỡ cái chung”, ông Hiệp cho biết và giải thích, quy hoạch của tỉnh “có xu thế” mạnh hơn, bởi có ngân sách địa phương để thực hiện, trong khi quy hoạch vùng ngân sách đâu không biết.
Thứ hai, xây dựng bộ máy vùng (nghị quyết 57 đã xác định) có đủ thẩm quyền, năng lực và nguồn lực để thực hiện vai trò chỉ đạo, điều phối vùng. Thế nhưng, bộ máy đó là cái gì thì chưa rõ!
Thứ ba, cần phải có công cụ để thực thi, đã quy hoạch vùng, có PCI (Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh) và PAPI (Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh)… chính là những công cụ cho các địa phương điều hành.
Thứ tư, phải thực hiện theo lộ trình, không cầu toàn và được giao nhiệm vụ cho các cơ quan, bao gồm Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng bộ tiêu chí để chọn các dự án liên kết vùng, nhưng đến hiện tại bộ tiêu chí này vẫn chưa có; thành lập hội đồng điều phối vùng (ở 5 vùng, chứ không riêng ĐBSCL- PV) và ra hạn định quí 2-2022 phải xong, nhưng đến nay vẫn chưa có.
Ông Hiệp cho biết có một điểm rất đáng lo, đó là Quyết định 593 (Quyết định 593 của Thủ tương Chính phủ ban hành ngày 6-4-2016 về cơ chế thí điểm liên kết vùng ĐBSCL- PV) trước đây “băn khoăn” về nguồn vốn, bây giờ giao cho Bộ Tài chính nghiên cứu cơ chế để phân chia lợi nhuận, chia sẻ tài chính và nguồn thu từ các chương trình, dự án liên kết vùng, nhưng hiện ra sao thì đơn vị này chưa trình.
Chính vì vậy, ông Hiệp gợi ý, trong báo cáo kinh tế thường niên năm 2023 (báo cáo kinh tế thường niên do VCCI phối hợp cùng Trường Chính sách công và quản lý Fullbright thực hiện- PV) cần tập trung được ý kiến của các chuyên gia, nhà quản lý và của doanh nghiệp. Từ đó, có những kiến nghị thiết thực để thúc đẩy liên kết vùng ĐBSCL, tạo động lực phát triển kinh tế- xã hội của vùng này nói riêng và cả nước nói chung.
Trong khi đó, kết luận tại hội thảo này, TS Nguyễn Đình Cung, Nguyên viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho rằng, không động lực, không nguồn lực và không áp lực, thì rất khó cho câu chuyện liên kết vùng ĐBSCL, cho nên, phải làm thế nào để có nguồn lực, có áp lực và có động lực để “xoay chuyển” câu chuyện này.
Theo ông Cung, việc tập hợp lãnh đạo 13 địa phương ĐBSCL lại cũng chưa chắc đã thực hiện được, cho nên, liên kết này nên xây dựng dựa trên thuận theo thị trường, tức 3-4 địa phương gần nhau căn cứ trên dòng chảy thị trường hàng hoá để tạo ra cụm kết nối. “Liên kết vùng có thể chia theo nhóm, tìm kiếm cơ hội cho các địa phương hợp tác như vậy”, ông nói.